TĂNG
GIÁ TRỊ GIAO DỊCH CHO TTCK VIÊT NAM
Bùi Nguyên Hoàn,
Mấy năm gần đây giới tài chính quốc tế đánh giá
thị trường chứng khoán Việt Nam
(TTCK VN) là thị trường tệ nhất thế giới. Tôi nghĩ lời nhận xét đó không sai. Hơn
một nửa số chứng khoán niêm yết có giá thấp hơn mệnh giá, thậm chí có cổ phiếu
có giá dưới 1.000đ. Giá trị giao dịch thấp tới mức tại sàn Hà Nội có phiên không
nổi 100 tỷ đ. Nhưng, đằng sau những con số đáng buồn đó, nôi tình các công ty
chứng khoán, công ty niêm yết còn tệ hơn nhiều.
Giá trị giao dịch là thước đo thanh khoản, là
tiêu chí số một để đánh giá sự thành bại của thị trường. Giá trị giao dịch thấp
thì tính thanh khoản yếu, hệ quả sẽ là hạn chế khả năng đầu tư và phát hành mới,
thị trường dẫm chân tại chỗ. Giá trị giao dịch thấp thì doanh thu môi giới ít,
trong hoàn cảnh nghiệp vụ tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư bế tắc,
công ty chứng khoán thua lổ là tất yếu.
Thị trường lúc thịnh lúc suy, giá lúc tăng
lúc giảm, lúc cao lúc thấp, người đầu tư lúc thành công lúc thất bại...đó là
chuyện bình thường. Nhưng hàng loạt công ty niêm yết phải và muốn hủy bỏ niêm yết, hàng loạt
công ty chứng khoán thua lỗ, nợ nần đầm đìa đang bế tắc hướng ra, rất nhiều nhà
đầu tư bị chiếm dụng vốn, chứng khoán trên tài khoản tại công ty chứng khoán, không
ít các nhà lãnh đạo và người môi giới dính vào vòng lao lý...đó là những chuyện
rất không bình thường. Nguyên nhân, tôi nghĩ rằng chủ yếu là ở khâu luật lệ,
chính sách và năng lực quản lý.
1. Hơn 12 năm qua TTCK VN vận động đúng theo
quy luật thị trường, bị chi phối nặng nề bởi yếu tố tâm lý, trong khi việc quản
lý, can thiệp, ứng phó với thị trường chủ yếu bằng các giải pháp hành chính phi
thị trường.
Những ngày đầu, thị trường chỉ có 2 loại cổ
phiếu niêm yết, giá trị vốn niêm yết 250 tỷ đồng, nhưng hoạt động đầu tư chứng
khoán như là "mốt thời thương", cung cầu chứng khoán mất cân đối
nghiêm trọng. Sau một năm, chỉ số VNIndex tăng từ 100 lên 770 điểm (7.2001).
Giá như lúc này, Bộ tài chính khẩn trương cổ phần hóa, đưa chứng khoán vào niêm
yết, hoặc đưa cổ phiếu cổ phần hóa ra đấu giá trên thị trường (IPO), thì cung
cầu sẽ cân đối, thị trường ổn định. Nhưng không, hai ngày cuối cùng của tháng
7.2001, một ý tưởng có thực từ cơ quan quản lý bị rò rỉ "người đầu tư sau 3 tháng mua vào mới được
bán ra". Một "sáng kiến chết người", VNIndex lập tức đổi
chiều và rơi tự do. Chưa đầy 3 tháng sau, chỉ số xuống còn 130 điểm (10.2001). Người
đầu tư hoang mang cực độ. Nhiều tháng và nhiều năm sau đó thị trường "gật
gù", biểu đồ chỉ số là một đường thẳng nằm ngang. Từ 2005 - 2006 VNIndex diễn biến tích cực theo tín hiệu đàm
phán Việt Nam
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngày 7.11.2006, VN là thành viên
chính thức của WTO và tổ chức thành công Hội nghị APEC tại Hà Nội, TTCK VN như
được tiếp lửa, VNIndex tăng vọt lên 809 điểm (12. 2006) rồi đạt đỉnh điểm lịch
sử 1170 điểm (12.03.2007). Nhưng rồi sau đó, người đầu tư cũng đủ tỉnh táo nhận
ra rằng WTO không phải là "đũa thần" cho kinh tế VN. VNIndex bắt đầu
hạ điểm. Tiếp đến tháng 3.2008, Ngân hàng Nhà nước ra chỉ thị 03, kéo vốn ngân
hàng ra khỏi TTCK. TTCK VN một lần nữa bị thoái trào. Năm 2008 cuộc khủng hoảng
tín dụng địa ốc dưới chuẩn tại Mỹ, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, TTCK thế giới rung động, TTCK VN tụt dốc, VNIndex xuống dưới 300 điểm. Đến nay TTCK
Mỹ và nhiều nước khác cơ bản đã phục hồi, các thị trường châu Âu đang bị sa lầy
bởi nợ công, TTCK VN đang bị sa lầy bởi những yếu kém nội tại của chính nó và của
nền kinh tế - tài chính.
Tuy vậy, 12 năm qua TTCK VN cũng đã lập được
một "thành tích bất hủ". Tâm lý hưng phấn bầy đàn của người đầu tư
trong từng giai đoạn, tạo nên giá trị kinh tế ảo "bong bóng thị
trường" quá nhanh và quá cao. Nhiều công ty niêm yết đã không bỏ lỡ thời
cơ, nhanh chóng phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ lên hàng chục, thậm chí
hàng trăm lần. Nhưng việc phát hành cổ phiếu chỉ dựa trên các thủ tục hành
chính đơn thuần, không trên căn cứ các dự án đầu tư hiệu quả và các chỉ tiêu kinh
tế vững chắc. Chỉ trong 12 năm ngắn ngủi, TTCK đã tạo ra một Câu lạc bộ ngàn tỷ đồng, với số thành
viên hàng trăm người. Tương ứng với số hàng ngàn tỷ tăng thêm của các thành
viên này là số thua lỗ, mất đi của hầu hết công chúng đầu tư, khi giá cổ phiếu
trở về gần với giá trị thực của nó. Chưa có cuộc tích tụ tư bản nào nhanh hơn
tại Việt Nam (!).
2. Tồn tại lớn nhất của TTCK VN trong hơn 12
năm qua là không công bằng và thiếu minh bạch. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến
những bê bối của các công ty chứng khoán, công ty niêm yết, dẫn đến người đầu
tư đã và đang từng bước rút khỏi thị trường.
Không công bằng trong giao dịch, người yêu
người ghét, do người môi giới và người điều hành hệ thống xử sự với người đầu
tư, là một chuyện không nhỏ. Vì nó làm cho người đầu tư số đông ít có được cơ
hội mua vào hoặc bán ra. (Trên TTCK cơ hội là vàng). Nhưng không công bằng giữa
các cổ đông trong cùng công ty niêm yết là một câu chuyện lớn hơn nhiều. TTCK VN
hoạt động trên một nền tảng các chuẩn mực quản trị công ty cổ phần đại chúng chưa
theo nguyên tắc thị trường "bình đẳng giữa các cổ đông, cổ đông thiểu số
phải được bảo vệ". Các công ty niêm yết và công ty đại chúng đích thực là
những công ty cổ phần, nhưng phương cách quản trị cơ bản vẫn như là doanh
nghiệp Nhà nước, hoặc như là doanh nghiệp tư nhân. Người đầu tư nhỏ (cổ đông
thiểu số) đang như bị bỏ rơi, quyền hợp pháp của họ bị xâm phạm nghiêm trọng,
và không có người bảo vệ. Ủy ban chứng khoán Nhà nước với vị trí pháp lý và bộ
máy như hiện nay, còn lâu mới làm được vai trò người trọng tài, người bảo vệ
lợi ích hợp pháp cho mọi cổ đông trong công ty đại chúng. Những người đầu tư
nhỏ đã nhìn thấy được sự lép vế, thua thiệt, tất yếu họ phải tìm cách rút khỏi
thị trường.
3. Dù đã ở tuổi 13, TTCK VN vẫn nghèo nàn về
chứng khoán và đơn điệu về giao dịch. Số chứng khoán niêm yết tại 2 SGD đến nay
là 705 cổ phiếu, chưa phải là con số đáng kể ở một đất nước hơn 85 triệu dân.
Những đơn vị kinh tế lớn thuôc các ngành kinh tế chủ chốt vẫn thuộc sở hữu Nhà
Nước, đang nằm ngoài thị trường.
Số chứng khoán và giá trị vốn niêm yết thấp,
thì giá trị giao dịch thấp là một vấn đề. Các loại chứng khoán giao dịch trên
thị trường đến nay vẫn chỉ đơn điệu là cổ phiếu phổ thông, rất nhiều loại cổ
phiếu khác, Luật Doanh nghiệp đã cho phép phát hành, vẫn chưa được phát hành,
hoặc phát hành chưa đúng chuẩn. Nhiều loại chứng khoán phái sinh, là những công
cụ đầu cơ thông minh, an toàn, kích hoạt giá trị giao dịch rất mạnh mẽ, TTCK
thế giới đã giao dịch hàng trăm năm, TTCK VN vẫn chưa có. Khi mà nền kinh tế có
vấn đề, giao dịch cổ phiếu, trái phiếu bị chựng lại, TTCK vẫn giao dịch sôi
động từ các loại chứng khoán phái sinh, công ty chứng khoán vẫn có thu nhập.
Trên 90% giao dịch trên TTCK là giao dịch đầu
cơ. Các loại chứng khoán phái sinh, như là hợp đồng về quyền lựa chọn, hợp đồng
tương lai... là những công cụ đầu cơ hoàn hảo cho giới đầu tư và kinh doanh
chứng khoán chuyên nghiệp. Giao dịch chứng khoán phái sinh có giá trị kích hoạt
giao dịch cổ phiếu. Lịch sử phát triển của thế giới chưa có thị trường nào giao
dịch chứng khoán phái sinh cản trở giao dịch cổ phiếu. TTCK Mỹ trong 2 năm 2008
- 2009 bị suy giảm nghiêm trọng do khủng hoảng tài chính, có một giai đoạn họ
cấm giao dịch bán khống, nhưng không cấm giao dịch chứng khoán phái sinh. Hiểu thấu
đáo bản chất của các công cụ phái sinh sẽ thấy được vị trí quan trọng của nó
trên TTCK. Rất tiếc cho TTCK VN trong thời buổi "chợ chiều" hiện nay.
4. Các yếu tố kinh tế vĩ mô, như là tỷ giá,
lãi suất, lạm phát, thuế thu nhập từ đầu tư chứng khoán đang bất lợi cho đầu tư
chứng khoán.
Lạm phát và tỷ giá không ổn định, biến động
theo hướng giảm giá trị của đồng tiền VN so với các ngoại tệ mạnh, thì rất khó
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đồng tiền của ta đang ở trong trạng thái đó.
Lãi suất ngân hàng cao hơn lợi nhuận bình
quân nền kinh tế, sẽ rất bất lợi cho đầu tư chứng khoán. Với lãi suất ngân hàng
hiện nay người đầu tư sẽ thoái vốn ở TTCK đưa gửi ngân hàng, sẽ có thu nhập cao
hơn, an toàn và đơn giản hơn.
Thuế thu nhập cá nhân không đánh vào tiền gửi
tiết kiệm, đánh vào đầu tư chứng khoán là một chuyện ngược đời(!), nhất là
trong tình hình tài chính doanh nghiệp đang rất yếu kém hiện nay. Bạn có 100
triệu đ, đưa gửi ngân hàng. Ngân hàng dùng số tiền đó cho vay, nền kinh tế sẽ nhận
được 90 triệu đ vốn kinh doanh ngắn hạn (trừ 10% dự trữ bắt buộc). Số vốn đó
hình thành vốn nợ của đơn vị vay. Ngược lại, nếu bạn đầu tư cổ phiếu, nền kinh
tế sẽ nhận được đầy đủ 100 triệu, và số vốn đó hình thành vốn cổ phần (vốn chủ),
ta gọi là vốn tự có. Cơ cấu tài chính doanh nghiệp VN nói chung còn rất yếu,
vốn nợ chiếm trên 70%, vốn chủ không quá 30%. Để lành mạnh tài chính doanh
nghiệp phải lật ngược con số đó, vốn chủ / vốn nợ trên dưới 70/30. Làm được như
vậy, nền kinh tế sẽ có sự thay đổi về chất, từ đó giảm được lãi suất ngân hàng
(cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay), doanh nghiệp có vốn tích lũy đầu tư
phát triển. Vì vậy nên bỏ thuế thu nhập cá nhân từ đầu tư cổ phiếu. Bỏ thuế thu
nhập cá nhân từ đầu tư cổ phiếu lúc này còn là một động lực góp phần thúc đẩy cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đang dẫm chân tại chỗ.
Thị trường chứng khoán là thị trường lòng
tin, và là thị trường đầu cơ. Giải pháp cho TTCK VN trước mắt và cả lâu dài,
tôi nghĩ có 3 nhóm: nhóm giải pháp về chính sách, về quản lý và về kỹ thuật
nghiệp vụ.
Trước
hết,
Nhà nước cần có những chính sách nhằm đưa người đầu tư quay lại với thị trường:
bỏ thuế thu nhập cá nhân từ đầu tư chứng khoán, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
cho các công ty chứng khoán để công ty chứng khoán giảm phí giao dịch cho người
đầu tư (có thể phí giao dịch chỉ thu ở lệnh bán), từng bước giảm lãi suất ngân
hàng, ngân hàng nới lỏng mức dư nợ đầu tư chứng khoán;
Hai là, để tránh xung khắc
quyền lợi của người đầu tư với công ty chứng khoán và để ngăn chặn công ty
chứng khoán sử dụng phi pháp vốn của người đầu tư, tách công ty chứng khoán ra
làm 2 loại công ty: công ty môi giới chứng khoán (không có nghiệp vụ tự doanh và
bảo lãnh phát hành), và công ty kinh doanh chứng khoán (không có nghiệp vụ môi
giới). Công ty môi giới chứng khoán phải thanh lọc đội ngũ môi giới, nâng cao
kiến thức, năng lực tư vấn và đạo đức nghề nghiệp cho họ, để họ trở thành chỗ
dựa đáng tin cậy của người đầu tư, mỗi người đầu tư đều có người môi giới tư
vấn thực thụ. Tài khoản tiền vốn của người đầu tư phải được mở tại một ngân
hàng thương mại do khách hàng lựa chọn, đứng tên người đầu tư. Giám sát chặt
chẽ tài khoản chứng khoán của người đầu tư tại công ty chứng khoán.
Ba là, tăng cường quản lý,
giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy chế quản trị công ty, quy chế thông tin và
giao dịch trên thị trường. Chú trọng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mọi cổ đông,
mọi người đầu tư. Người đầu tư có đủ thông tin cần thiết liên quan đến giá
chứng khoán và tình hình thị trường một cách kịp thời, bình đẳng. Công ty chứng
khoán phải minh bạch, công khai tài chính, công khai thường xuyên lý lịch trích
ngang đội ngũ môi giới và người lãnh đạo. Ngăn chặn tối đa và xử lý nghiêm giao
dịch nội gián, giao dịch không công bằng, và những hành vi xử sự sai điều lệ, quy
chế quản trị công ty của người quản trị, điều hành tại các công ty đại chúng.
Bốn là, ban hành thể lệ, quy
chế và triển khai giao dịch chứng khoán phái sinh. Thời kỳ đầu cho giao dịch
hợp đồng tương lai về các loại cổ phiếu thuộc nhóm thanh khoản cao, và cho giao
dịch quyền lựa chọn về các loại cổ phiếu đó và hai chỉ số VNIndex, HNX. Sau đó
tùy thuộc kỹ năng giao dịch của thị trường và năng lực quản lý của các sở giao
dịch, có thể bổ sung các loại giao dịch hợp đồng kỳ hạn và quyền lưa chọn về
ngoại tệ, vàng và các loại hàng hóa giao dịch trên các thị trường hàng hóa kỳ
hạn của thế giới (cafe, dầu mỏ...). Tất nhiên để giao dịch các công cụ phái
sinh an toàn và hiệu quả, phải có quy chế chính xác, cụ thể và phải phổ cập
kiến thức cho các công ty chứng khoán và người đầu tư.
Năm là, Nhà nước cần có một
cơ quan quản lý nhà nước chuyên môn về hệ thống thị trường tài chính. Các định
chế tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, và các tổ chức đầu tư tài
chính, mỗi loại định chế có tính độc lập về kỹ thuật nghiệp vụ, nhưng có mối
quan hệ hữu cơ, là tiền đề, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. Do đó cần có một cơ
quan quản lý Nhà nước bao trùm lên tất cả, để có các chính sách tài chính thống
nhất. Năm 2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước ra chỉ thị 03 nhằm giảm và khống
chế hạn mức tín dụng đầu tư chứng khoán là không đứng trên lợi ích của hệ thống
tài chính. Chỉ thị 03 đã gây tâm lý tiêu cực cho TTCK, trong khi cho vay chứng
khoán theo thể lệ tín dụng cầm cố, thế chấp là rất an toàn. Vì chứng khoán niêm
yết có khả năng thanh khoản cao. Mặt khác, khi ngân hàng thương mại cho vay đầu
tư chứng khoán, tức là ngân hàng đã mặc nhiên chuyển được một phần vốn ngắn hạn
của nền kinh tế sang vốn dài hạn đầu tư phát triển.
http://ndhmoney.vn/web/guest/s02/-/journal_content/ttck:-4-diem-nguoc-doi-va-3-nhom-giai-phap
* Đăng báo bị cắt xén khá nhiều
* Đăng báo bị cắt xén khá nhiều